
Đền Bia
thôn Văn Thai, xã Tuệ Tĩnh, Thành phố Hải Phòng
0337863452
Giới thiệu
Cụm di tích Quốc gia đặc biệt đền Xưa – chùa Giám – đền Bia
Cụm di tích Quốc gia đặc biệt đền Xưa, đền Bia (nay thuộc xã Tuệ Tĩnh – TP. Hải Phòng), chùa Giám (nay thuộc xã Cẩm Giang – Tp. Hải Phòng) ra đời và tồn tại lâu dài trong lịch sử có liên quan mật thiết với nhau vì đều phụng thờ một danh nhân Đại danh y - Thiền sư Tuệ Tĩnh. Cuộc đời, sự nghiệp cũng như y đức, y đạo, y tài của Ông đã trở thành tấm gương sáng trong lịch sử Y học dân tộc.
Bao thế kỷ đã qua, đến nay cuộc đời, thân thế và sự nghiệp Đại danh y - Thiền sư Tuệ Tĩnh vẫn còn ghi đậm dấu ấn trong những di tích tôn thờ ông như: Đền Xưa, thôn Nghĩa Phú, xã Tuệ Tĩnh - nơi ông cất tiếng khóc chào đời. Chùa Giám, xã Cẩm Giang- nơi ông được nuôi dưỡng, ăn học thuở hàn vi tới lúc thành tài và đền Bia, thôn Văn Thai, xã Tuệ Tĩnh - nơi lưu giữ tấm bia có ghi tạc lời di nguyện của ông. Tất cả vẫn còn và ngày càng được quan tâm bảo tồn, phát huy giá trị, như một lời khẳng định về tài năng, y đức mà Đại danh y - Thiền sư Tuệ Tĩnh đã cống hiến. Với những giá trị đó cụm di tích quốc gia đặc biệt thờ Đại danh y – Thiền sư Tuệ Tĩnh đền Xưa – chùa Giám – đền Bia được nhà nước xếp hạng Quốc gia đặc biệt năm 2017.
Đền Bia, tọa lạc tại thôn Văn Thai, xã Tuệ Tĩnh – TP. Hải Phòng, là một di tích lịch sử quan trọng, gắn liền với cuộc đời và sự nghiệp của thiền sư Tuệ Tĩnh – một trong những Đại danh y nổi tiếng của Việt Nam, được người đời tôn vinh là “vị Thánh thuốc
Nam”. Đền Bia được xây dựng để thờ Tuệ Tĩnh và tấm bia đá thời Lê, là di vật quý báu kỷ niệm cuộc đời và công lao của ông trong việc phát triển y học dân tộc.
Tuệ Tĩnh tên thật là Nguyễn Bá Tĩnh, pháp hiệu là Tuệ Tĩnh thiền sư, xuất thân từ một gia đình nông dân nghèo ở làng quê Nghĩa Lư, huyện Đa Cẩm thuộc vùng đất Hồng Châu (nay là làng Xưa, xã Tuệ Tĩnh – TP Hải Phòng). Tuệ Tĩnh mồ côi cha từ khi 6 tuổi được nhà sư chùa Nghiêm Quang (tức chùa Giám ngày nay) đón về nuôi dậy. Vốn là người thông minh, ham học đến năm 22 tuổi ông thi đỗ Thái học sinh đời vua Trần Dụ Tông nhưng không ra làm quan mà trở về chùa cũ tu hành, chuyên tâm nghiên cứu y học, giáo lý, ông lấy vườn chùa làm cơ sở trồng thuốc. Với phương châm “Nam dược trị Nam nhân”
Năm Giáp Tý (1384) vua Trần phái ông đi sứ nhà Minh chữa khỏi bệnh cho Tống Vương phi. Khâm phục trước tài năng của ông, vua Minh đã phong cho Tuệ Tĩnh làm “ Đại y Thiền sư” và cũng từ đấy nhà Minh giữ ông ở lại Kim Lăng. Một thời gian sau ông mất tại Giang Nam
Kiến trúc của đền mang đậm dấu ấn truyền thống, với không gian trang nghiêm, thể hiện sự tôn kính đối với Tuệ Tĩnh và nền y học cổ truyền Việt Nam. Đền Bia không chỉ là nơi thờ phụng mà còn là điểm đến giáo dục về lòng tri ân đối với những cống hiến vĩ đại của Đại danh y Tuệ Tĩnh trong lịch sử dân tộc.
Đền Bia được khởi xây dựng vào thời Lê, tôn tạo vào các năm 1936, 1993, 1996 và năm 2005, 2006, có kiến trúc Tiền nhất, Hậu đinh. Gồm có nhiều hạng mục công trình tạo thành quần thể kiến trúc khang trang bề thế tọa lạc trên một diện tích rộng 4 ha chia làm 3 khu vực gồm khu vườn thuốc, khu thờ tự, khu y xá tất cả được bố trí đăng đối, hài hòa trong một khuôn viên rộng có cây cối bao quanh.
Đền nhìn về hướng bắc, xung quanh là cánh đồng giữa hai làng Văn Thai và Phú Lộc. Bên phải đền là bãi đỗ xe. Đi qua Nghi Môn gồm 3 tòa cổng. Tòa cổng chính giữa 3 gian, 2 tầng mái, 8 mái. Hai tòa cổng hai bên, 1 gian, 2 tầng mái, 8 mái vào nội tự di tích có một thủy Lăng trên hồ xây năm 1993, mặt bằng lục giác, 2 tầng, 12 mái. Bước qua bậc Tam cấp lên sân chính là bức bình phong bằng đá có đề chữ “Phúc” du khách đi vào một sân rộng lát gạch Bát Tràng nằm ở giữa hai dãy nhà Tả, Hữu vu đăng đối. Công trình có kích thước không cao nhưng chắc chắn, mỗi tòa có 5 gian xây theo kiểu tường hồi bít đốc, mái lợp gói mũi
Đền thờ chính có mặt bằng kiến trúc kiểu “Tiền nhất, Hậu đinh”, gồm tòa Tiền tế và Hậu đường. Tòa Tiền tế có 5 gian, 2 tầng mái, 8 mái, theo phong cách kiến trúc thời Nguyễn. Tòa Trung từ có 5 gian, 2 gian Hậu cung đặt tượng thờ Đại danh y -Thiền sư Tuệ Tĩnh.
Di tích đền Bia có kiến trúc mang đậm dấu ấn văn hóa thờ tự truyền thống của người Việt. Công trình có nhiều hạng mục kết cấu kiến trúc khác nhau như: Tiền tế, Hậu cung, Tả Vu, Hữu vu, khu chẩn trị, vườn thuốc, tạo nên một không gian linh thiêng và cổ kính.
Tiền tế của đền được thiết kế đơn giản nhưng vững chãi, với những cột gỗ lớn, được chạm khắc tinh xảo, mang đậm phong cách kiến trúc dân gian người Việt. Phần mái có 4 góc đao cong, trang trí hoa văn, tạo nên sự thanh thoát và uy nghiêm cho công trình.
Hậu cung là nơi đặt ban thờ, tượng Đại danh y Tuệ Tĩnh và tấm bia đá trong không gian thâm nghiêm, trang trọng thích hợp cho các nghi lễ cúng tế.
Tấm bia đá trong Hậu cung, là di vật quan trọng, được chế tác công phu và khắc dòng chữ ghi lại lời di nguyện của Đại danh y Tuệ Tĩnh trước khi mất tại Giang Nam, tấm bia được con dân đất Việt coi như bảo vật thiêng liêng. Đây không chỉ là minh chứng cho sự kính trọng của nhân dân đối với vị thiền sư, mà còn là di sản văn hóa quý giá, ghi lại một phần lịch sử phát triển y học dân tộc.
Kiến trúc đền Bia không chỉ thể hiện sự tôn kính đối với Tuệ Tĩnh mà còn là biểu tượng của giá trị tri thức, đạo đức trong văn hóa Việt Nam. Những chi tiết trong kiến trúc của đền phản ánh sự hòa quyện giữa sự trang nghiêm trong thờ tự và vẻ đẹp truyền thống của nền văn hóa dân tộc.
Nghi môn được xây dựng theo kiểu 2 tầng 8 mái, chất liệu gỗ, mái lợp ngói mũi truyền thống. Hệ thống cột, đầu dư, bẩy hiên, đấu vuông, các vì được chạm khắc bong kênh hình lá lật cách điệu mang phong cách nghệ thuật thời Nguyễn. Nghi môn đền Bia trang nghiêm, có kết cấu truyền thống với các khung cột gỗ lim vững chãi, tạo sự vững chắc và bền vững cho toàn bộ công trình. Các cột được chạm khắc những họa tiết đơn giản, thể hiện sự hòa hợp giữa con người và đất trời. Phần mái nghi môn được lợp ngói mũi và có độ cong nhẹ, tạo vẻ thanh thoát, phù hợp với kiến trúc của đền.
Nghi môn đền Bia không chỉ là phần dẫn lối vào khu vực thờ tự, mà còn mang trong mình những giá trị tâm linh sâu sắc. Theo truyền thống văn hóa Việt Nam, Nghi môn là biểu tượng của sự bảo vệ, sự kết nối giữa con người và thần linh, giữa thế giới trần tục và thế giới tâm linh, thể hiện sự kính trọng đối với Thiền sư Tuệ Tĩnh, đồng thời là nơi bắt đầu hành trình tâm linh của những người đến thăm.
Thủy lăng (nhân dân gọi Thủy Đình) được xây dựng giống như một bông hoa sen khổng lồ theo hình lục lăng, 2 tầng 12 mái. Các đầu đao được đắp vẽ hình rồng, phượng, lá lật cách điệu mềm mại và thanh thoát. Các mặt, phần tiếp giáp giữa 2 tầng mái được đắp vẽ hình rồng, phượng, mặt hổ phù và hoa lá cách điệu. Bên trong công trình có đặt một tấm Bia đá, khắc bằng chữ Quốc ngữ kiểu chân phương giới thiệu về tiểu sử Đại danh y Tuệ Tĩnh, xung quanh hồ nước hình chữ nhật là đường đi được lát bằng gạch vuông đỏ mang đậm ý nghĩa tâm linh và phong thủy. Thủy lăng ở đây được thiết kế dưới dạng một ao nước nhỏ, nằm ngay trong khuôn viên đền, tạo không gian thoáng đãng và thanh tịnh. Mặt ao thường trong suốt, phản chiếu hình ảnh của cây cối và cảnh vật xung quanh, mang lại vẻ đẹp yên bình và tĩnh lặng cho khu vực thờ tự.
Theo truyền thống, Thủy lăng có vai trò tượng trưng cho sự thanh lọc và cân bằng âm dương, giúp tạo ra một không gian hài hòa, thư giãn cho người viếng thăm. Nước trong Thủy lăng không chỉ có giá trị thẩm mỹ mà còn mang lại ý nghĩa phong thủy, giúp bảo vệ, đem lại sự may mắn và bình an cho người dân địa phương. Đây là nơi lý tưởng cho những ai tìm kiếm sự yên bình, chiêm nghiệm và hòa mình vào không gian linh thiêng của đền Bia.
Sân đền là không gian rộng rãi, được thiết kế đơn giản nhưng rất trang trọng, với mục đích tạo ra một môi trường thanh tịnh và yên bình cho các hoạt động thờ cúng, lễ hội và chiêm bái.
Khu vực sân được bao quanh bởi những hàng cây cổ thụ lớn, bóng mát, tạo không gian thoáng đãng và mát mẻ. Những cây cổ thụ này không chỉ giúp che bóng mát mà còn góp phần tạo nên không khí thanh tịnh, thích hợp cho việc suy ngẫm và chiêm bái. Sân còn có những bụi cây thấp, hoa cỏ tự nhiên, tạo nên vẻ đẹp hài hòa với thiên nhiên.
Tại trung tâm của sân đền, hai bên có 2 tấm bia đá, một bên khắc Văn tế Đại danh y Tuệ Tĩnh, một bên khắc Văn bia trùng tu, tôn tạo đền Bia được đặt trên nền sân lát gạch bát tràng phục chế. Đây là điểm nhấn đặc biệt trong không gian đền, ghi lại công lao của Thiền sư Tuệ Tĩnh và là biểu tượng của sự tri ân đối với ông. Tấm bia được chạm khắc chữ rõ ràng và sắc nét, thể hiện sự tôn kính đối với vị danh y nổi tiếng.
Sân đền không chỉ là không gian phục vụ cho các nghi lễ cúng tế mà còn là nơi cho du khách và người dân đến tham quan, cảm nhận được sự thanh tịnh, yên bình, và lòng kính trọng đối với Thiền sư Tuệ Tĩnh. Với không gian rộng lớn, cây cối bao quanh và tấm bia đá trang trọng, sân đền tạo nên một không gian thiêng liêng, hòa hợp giữa con người và thiên nhiên.
Tả vu nằm ở phía bên trái của đền là nơi sửa soạn y phục và chuẩn bị hương hoa quả, các vật phẩm thờ tự được bầy sắp lên các mâm lễ trang nghiêm để thể hiện lòng thành kính và tri ân đối với Thiền sư Tuệ Tĩnh và các bậc tiền nhân. Kiến trúc của Tả vu theo kiểu truyền thống với ba gian và hai chái, tạo nên sự đối xứng và cân đối với các công trình trong đền. Mái đựợc lợp ngói mũi, có độ dốc nhẹ, mang lại vẻ thanh thoát, trang trọng. Các cột trụ và hai đầu hồi ngôi nhà Tả Vu được chạm khắc tinh xảo, thể hiện sự uy nghi cổ kính của ngôi đền.
Ngày nay tả vu được dùng đón tiếp các đoàn khách và nhân dân về đền tham quan và dự lễ Thánh.
Hữu vu là khu vực nằm ở phía bên phải của đền, đối diện với Tả Vu, tạo nên sự đối xứng hoàn hảo trong tổng thể kiến trúc của đền. Cũng như Tả vu, Hữu vu có vai trò quan trọng trong hệ thống thờ tự, là nơi chuẩn bị các nghi lễ thờ cúng, thể hiện sự tôn kính đối với các vị thánh hiền và tổ tiên. Kiến trúc của Hữu vu cũng được xây dựng theo kiểu truyền thống với ba gian và hai chái, mái lợp ngói mũi, tạo sự hài hòa với các khu vực khác trong đền. Các cột trụ và tường trong Hữu vu được chạm khắc tinh tế với những họa tiết mang đậm dấu ấn văn hóa truyền thống
Hữu vu là nơi sửa soạn hương, hoa, quả và các lễ vật thờ tự khác, dùng để bày tỏ lòng thành kính, tri ân đối với Thiền sư Tuệ Tĩnh và các bậc tiền nhân. Không gian trong Hữu Vu luôn giữ được sự thanh tịnh, nghiêm trang, là nơi để du khách và nhân dân chiêm nghiệm và tìm kiếm sự bình an trong tâm hồn.
Tiền tế là phần quan trọng khu vực thờ tự ngôi đền. Tiền tế mang đậm phong cách nghệ thuật kiến trúc của thời Nguyễn; bao gồm 5 gian với diện tích 120m2.làm theo kiểu “lòng thuyền tứ trụ” gồm 8 cột gỗ lim đặt trên chân đá tảng xanh hình tròn, vươn cao đỡ 2 tầng mái, tạo sự thông thoáng cho công trình. Các vì kèo chính được làm theo kiểu “con chồng giá chiêng”; các đầu dư, bẩy hiên, con chồng được chạm khắc hình bông sen, lá lật và chữ “thọ” cách điệu. Hệ thống cửa chính gồm 03 bộ được làm theo lối “thượng song hạ bản”, không trang trí hoa văn. Bờ nóc được đắp vẽ hình “lưỡng long chầu nhật”, mái lợp ngói mũi, nền lát bằng gạch vuông đỏ.
Tại tòa Tiền Tế gian trung tâm có đặt Nhang án, Ngai và Bài vị thờ Tiến sĩ Nguyễn Danh Nho. Việc thờ tự này mới được đưa vào năm 2005 với ý nghĩa là tri ân
Tiến sĩ Nguyễn Danh Nho đã có công tạo tác tấm Bia đá khắc lời di nguyện của Đại danh y Tuệ Tĩnh ở Trung Quốc mang về quê hương. Trên ban thờ Tiến sĩ Nguyễn Danh Nho có một bức Hoành phi lớn viết bằng chữ Hán ca ngợi người được thờ, phiên âm“Tiên Thánh linh từ” có nghĩa là “đền thờ vị Thánh linh thiêng thời trước”.
Khu vực Tiền Tế không chỉ là nơi diễn ra các nghi lễ truyền thống mà còn là không gian đón tiếp khách thập phương, tạo cảm giác tôn nghiêm và trang trọng ngay từ khi bước vào.
Trung từ là phần trung tâm, quan trọng nhất của công trình kiến trúc, là không gian linh thiêng nhất trong đền.
Trung từ có 3 gian 2 dĩ xây theo kiểu tường hồi bít đốc, mái lợp ngói mũi. Các bộ vì chính được làm theo kiểu chồng rường giá chiêng. Hệ thống câu đầu, bẩy hiên được chạm khắc hoa lá, chữ thọ cách điệu. Toàn bộ cột được đặt trên chân đá tảng hình tròn đường kính khoảng 25cm.
Tại gian Trung từ có 3 nhang án, ngai và bài vị thờ. Ở chính giữa là Ban Công đồng, hai bên là Ban thờ Sơn thần và Thổ thần. Phía trên Ban thờ Công đồng có bức hoành phi chất liệu gỗ, trên có chạm khắc 4 chữ Hán “Thái y Thiền sư”.
Trung cung là nơi diễn ra các nghi lễ thờ cúng và các hoạt động tín ngưỡng. Đây là không gian linh thiêng, được dành riêng cho những người đến thắp hương và chiêm bái về những giá trị tâm linh, tri thức mà Thiền sư Tuệ Tĩnh để lại cho dân tộc.Hậu cung, về kiến trúc, kiểu dáng giống như tòa Trung từ. Tại đây có nhang án và tượng thờ Đại danh y Tuệ Tĩnh. Tượng được làm bằng chất liệu đồng, cao 88,2 cm ngồi trên ngai, đầu đội mũ Bình thiên có bốn tua kim tòng, mắt sáng, nhìn thẳng nhân từ, râu dài, hai tay chắp trước ngực, áo thêu hình rồng, có đai, chân đi hài. Tượng do
nhân dân trong làng đúc để thờ năm 1936. Tượng được đặt trong khám bằng gỗ kiểu chân quỳ dạ cá, cao 1,5m, rộng 1,2m, dài 1,2m; diềm dưới trang trí hoa lá, khung ngoài trạm trổ tứ linh; diềm trên cùng trang trí lưỡng long chầu nguyệt. Bốn đầu góc đao của khám là 4 đầu rồng, góc dưới là hình ảnh cá hóa rồng. Khám được trang trí khá cầu kỳ, tinh xảo và được sơn son thếp vàng lộng lẫy. Toàn bộ tượng và khám thờ được đặt trên một bệ đá hình vuông cao 1.0m, mỗi chiều 1,4m. Bệ đá này là của một ông Lý trưởng, người huyện Nam Sách có tên là Cửu Sinh bị bệnh liệt người, sau khi chữa nhiều nơi không khỏi đã tới xin thuốc Thánh ở đền Bia về uống và khỏi bệnh. Để cảm tạ, tri ân vị Thánh thuốc Nam, ông đã cung tiến bệ đá vào năm 1940.
Phía sau khám thờ Đại danh y - Thiền sư Tuệ Tĩnh (giáp tường) có đặt một bệ đá xanh cao 1,5m, bên trên có đặt một tấm bia đá hình tứ trụ (4 mặt), tương truyền có từ thời Hậu Lê. Bia cao 80cm, rộng 18cm, dày 18cm, nặng 75kg, trên có chữ nhưng tương truyền đã bị đục vào thời vua Thiệu Trị (1841-1847), hiện không đọc được. Tấm Bia được coi là báu vật của di tích vì nó là bằng chứng quan trọng nhất trong việc ghi tạc lời di nguyện của Đại danh y - Thiền sư Tuệ Tĩnh trước khi mất ở Giang Nam (Trung Quốc). Đồng thời, sự hiện diện của ngôi đền trong lịch sử cũng chứng tỏ tấm lòng của nhân dân địa phương đối với Đại danh y - Người con của quê hương đã hết lòng chăm lo tới sức khỏe của nhân dân. Chính vì vậy, Hậu cung của đền Bia luôn được khóa giữ và trông coi hết sức cẩn trọng, cung cấm chỉ được mở khi thực sự cần thiết và vào các kỳ lễ tiết quan trọng.
Tại đây phía trên gian trung tâm có treo bức hoành phi: “Thánh cung vạn tuế”, dịch nghĩa Bậc Thánh sống lâu muôn tuổi. Hệ thống cửa võng và đồ thờ tự đều được sơn son, thếp vàng lộng lẫy tạo sự trang nghiêm, linh thiêng cho nơi thờ tự.Khu chẩn trị là một khu vực đặc biệt trong quần thể kiến trúc của đền, gắn liền với truyền thống y học của Thiền sư Tuệ Tĩnh, người được mệnh danh là "vị thánh thuốc nam".
Khu chẩn trị được xây dựng nhằm tưởng nhớ và tri ân những đóng góp lớn lao của Tuệ Tĩnh trong việc nghiên cứu và phát triển y dược, cũng như chữa trị bệnh cho
nhân dân. Đây là nơi mà các du khách và người dân có thể đến để bắt mạch, kê đơn, bốc thuốc chữa bệnh, nâng cao tinh thần, sức khỏe.
Khu Y xá gồm ba công trình: nhà Bắt mạch kê đơn thuốc, nhà Bốc thuốc và nhà Chẩn trị, được xây đăng đối, liên hoàn. Trong đó, nhà Bắt mạch được đặt ở vị trí trung tâm còn hai bên là nhà Bốc thuốc và Chẩn trị. Ba công trình có kiến trúc giống nhau kiểu chữ Nhất (-) gồm 5 gian. Toàn bộ hệ thống cột, vì kèo, đầu dư, bẩy hiên, đấu chồng, cửa… đều được làm bằng chất liệu gỗ lim giống nhau, bào trơn đóng bén đơn giản, không trang trí hoa văn, nhưng khá chắc chắn.
Khu chẩn trị được thiết kế với không gian trang nghiêm, thanh tịnh, phù hợp với những buổi lễ thờ cúng và các nghi thức chữa bệnh truyền thống. Trong khu vực này, người dân và du khách có thể chiêm nghiệm về những phương pháp chữa bệnh bằng thuốc nam, những bài thuốc và kinh nghiệm của Tuệ Tĩnh được lưu truyền qua nhiều thế hệ. Khu chẩn trị không chỉ là nơi thực hành y học cổ truyền mà còn là điểm đến tâm linh, giúp mọi người cảm nhận được sự kết nối giữa y học, đạo lý và tinh thần từ bi của Thiền sư Tuệ Tĩnh.
Khu vườn thuốc nam gắn liền với truyền thống y học dân tộc và Thiền sư Tuệ Tĩnh.vườn thuốc nam được tạo dựng để tưởng nhớ và tri ân những cống hiến của ông đối với nền y học cổ truyền Việt Nam.
Toàn bộ khu vườn thuốc rộng 1.200 m2, được chia làm 9 ô tương ứng với 9 bài thuốc là 9 nhóm bệnh theo hướng dẫn của Bộ Y tế gồm: Nhóm cảm sốt; nhóm mụn nhọt; nhóm điều kinh; nhómđau nhức xương khớp; nhóm ho; nhóm kiết lỵ; nhóm tiêu chảy; nhóm sốt xuất huyết và nhóm viêm gan siêu vi trùng.
Trong vườn hiện có khoảng trên 150 loại cây thuốc được ghi rõ tên gọi từng loại và được chăm sóc chu đáo. Vườn thuốc đền Bia không chỉ là vườn thuốc mẫu, mà nó còn là trường học thực địa cho sinh viên ngành Y dược Việt Nam.
Mỗi loài cây trong vườn đều có một câu chuyện riêng về công dụng, bài thuốc mà Thiền sư Tuệ Tĩnh đã sử dụng trong thời kỳ ông còn sống. Khu vườn không chỉ là nơilưu giữ những giá trị y học cổ truyền mà còn mang đậm tính tâm linh, tạo không gian thư giãn, thanh tịnh cho du khách đến tham quan và chiêm bái. Đây là điểm đến lý tưởng để tìm hiểu về những phương pháp chữa bệnh từ thiên nhiên và tôn vinh công lao của một vị thiền sư có ảnh hưởng lớn đến nền y học dân tộc.
Hiện vật
Bản đồ
Địa điểm xung quanh