

Giới thiệu
Chùa Giám có tên chữ là Nghiêm Quang tự, thuộc xã An Trang, tổng An Trang; thời Trần thuộc huyện Thiện Tài, thời Lê và Nguyễn thuộc huyện Gia Lương, phủ Thuận An. Năm 1892, thuộc huyện Cẩm Giàng, năm 1955 thuộc xã Cẩm Sơn. Năm 1971, do yêu cầu giải phóng dòng chẩy, chống lũ lụt của sông Thái Bình, toàn bộ dân xã Cẩm Sơn và di tích phải di chuyển về một địa điểm mới, cách xã cũ 7km về phía tây. Năm 1972 - 1974 toàn bộ công trình gồm Chùa, Cửu phẩm, Nghè Giám được tháo dỡ, chuyển theo cư dân về xã mới Đây là một kỳ công, chưa từng có trong lịch sử tỉnh Hải Dương. Toàn bộ tượng Phật, bia ký, cổ vật với gần 100 pho tượng cổ, 2 chuông đồng lớn, có niên đại 1762 và 1848, 15 bia đá có niên đại từ thế kỷ XVII đến XIX,…được di chuyển và phục dựng an toàn tại địa điểm mới. Đây là những trang sử bằng đá, những văn bản quý để nghiên cứu lịch sử di tích. Trong số những pho tượng cổ có tượng Tuệ Tĩnh. Đây là bảo vật về một Thiền sư nổi tiếng, Đại danh y của dân tộc, người có công đầu tôn tạo Nghiêm Quang tự và nghiên cứu, chẩn trị bách bệnh cho dân, được tôn vinh là Thánh sư Nam dược
Chùa Giám hiện xây dựng trên quê mới vẫn thuộc xã Cẩm Sơn. Năm 2019, căn cứ vào Nghị quyết số 788/NQ-UBTVQH14 ngày 16 tháng 10 năm 2019 về việc sắp xếp các đơn vị hành chính cấp huyện, cấp xã thuộc tỉnh Hải Dương, theo đó xã Cẩm Sơn sáp nhập với xã Cẩm Định thành xã Định Sơn, chùa Giám thuộc xã Định Sơn, huyện Cẩm Giàng, tỉnh Hải Dương.
Tương truyền, Nghiêm Quang tự có từ thời Lý, ở vùng đất trù phú, của một làng quê văn hiến, giữa Hồng Lộ và Kinh Bắc, gần sông Hàn Giang, thời Trần từng là nơi Tuệ Tĩnh tu hành và nghiên cứu, chẩn trị cho dân bằng thuốc Nam. Cuối thế kỷ XVII, chùa được xây dựng lại với quy mô lớn, theo kiểu nội công ngoại quốc, các công trình kiến tạo theo một trục dọc từ Tây sang Đông. Từ đường trục chính của xã vào, chúng ta gặp Tam quan, hồ thiên quang, sân chùa, tiếp đến là 7 gian Tiền đường nối với Tam bảo bằng một gian ống muống, tiếp đến Tòa Cửu phẩm Liên hoa và sau cùng là 7 gian nhà Tổ cùng 2 dãy hành lang khép kín không gian thờ tự.. Bên cạnh chùa còn có Nghè thờ Thành hoàng làng.
Trong quá trình lịch sử, di tích đã được chính quyền và nhân dân địa phương trùng tu, tôn tạo nhiều lần. Cuối thế kỷ XVII, năm Chính Hòa 17 (1696), chùa đã được tu bổ lớn các hạng mục: Tam bảo và Hành lang. Tiếp theo các năm Chính Hòa 22 (1701), Chính Hòa 24 (1703), Vĩnh Thịnh 2 (1706), Vĩnh Thịnh 8 (1712), Vĩnh Thịnh 13 (1717), Vĩnh Thịnh 14 (1718), và các năm 1974, 2017, 2023-2025 chùa liên tục được tu bổ.
Chùa Giám một di tích lịch sử, văn hóa nổi tiếng với kiến trúc độc đáo và có giá trị lâu đời. Một điểm nhấn đặc biệt của chùa Giám là Tòa Cửu Phẩm Liên Hoa – công trình kiến trúc Phật giáo độc đáo, hiếm có ở Việt Nam, được làm hoàn toàn bằng gỗ, có thể xoay tròn quanh trục. Chùa đã được công nhận là di tích lịch sử, văn hóa nghệ thuật cấp quốc gia năm 1974, ngày 25 tháng 12 năm 2017 cụm di tích đền Xưa – chùa Giám – đền Bia được xếp hạng di tích Quốc gia đặc biệt,
Ngày nay chùa là khu du lịch cấp tỉnh, điểm đến của quý phật tử, du khách thập phương đến tham quan, chiêm bái và tìm hiểu giá trị lịch sử, văn hóa, kiến trúc nghệ thuật gắn liền với Phật giáo Việt Nam. Chùa Giám trước kia nằm ở ngoài đê sông Thái Bình, năm 1974 chùa được di chuyển đến vị trí hiện nay, ở thế đất bằng phẳng và có một không gian đẹp, thoáng đãng. Trước mặt có đường liên xã chạy qua, xung quanh là nhà dân. Ngăn cách không gian chùa với không gian sinh hoạt đời thường có Tam quan ở phía trước và tường xây bao xung quanh. Theo bản vẽ quy định khu vực chùa Giám năm 1966 – 1968, chùa Giám quay hướng Tây, nhưng ở vị trí hiện tại, chùa Giám quay hướng Đông Nam có ý nghĩa nhìn về quê cũ.
Đi từ ngoài vào là cổng Tam quan xây theo kiểu 2 tầng 8 mái, chất liệu gỗ, mái lợp ngói mũi truyền thống. Hệ thống cột, đầu dư, bẩy hiên, đấu vuông, các vì được chạm khắc bong kênh hình lá lật cách điệu mang phong cách nghệ thuật thời hậu Lê. Qua khoảng sân gạch có một hồ nước nhân tạo hình chữ nhật tạo cảnh và phong thủy cho ngôi chùa, tiếp đến là khu chùa chính với các hạng mục: Tam bảo, Cửu phẩm, nhà Tổ, 2 dãy hành lang. Bên trái khu chùa chính có nhà khách và nhà tăng mới được xây dựng năm 2004, bên phải là vườn tháp.
Tòa Tam bảo gồm: Tiền đường, Thiêu hương và Thượng điện. Điều đặc biệt, Tam bảo chùa Giám tuy có mặt bằng nền hình chữ “đinh” nhưng mái lại được làm theo hình chữ “công”. Phần mái Thượng điện nằm ngang, song song với mái Tiền đường, được nối với nhau qua bộ mái nằm dọc của tòa Thiêu hương.
Tiền đường: có chiều dài 18,9m, rộng 7,6m, gồm 7 gian 2 chái hạ xối, đao tàu, déo góc. Đặc biệt, tòa Tiền đường ở đây không cao, cột cái cao 2,8m, đường kính 33,1 cm, cột quân cao 2,1m, đường kính 26cm nhưng thân cột rất to. Cửa tòa Tiền đường đặt theo hàng cột thứ nhất, nên hiên rất rộng. Ở gian giữa có đóng ngưỡng chồng, cao tới 1m, có bốn cánh cửa ngắn bên trên, chức năng như cửa sổ. Cấu tạo của gian giữa như một tắc môn, đấy là một nét đẹp riêng, hiếm thấy ở các chùa khác. Cửa võng có bức chạm quần long tinh xảo, mang vẻ đẹp đặc trưng của nghệ thuật chạm khắc gỗ thời Lê, cũng hiếm thấy
Từ Tiền đường, có một gian ống muống nối vào tòa Tam bảo rộng một gian hai chái nằm song song với Tiền đường. Tại gian ống muống có đặt hai ban thờ Đức ông (bên phải) và Tượng Đức Thánh Hiền (bên trái)
Tòa Tam bảo được bài trí 4 lớp tượng bằng gỗ, sơn son thếp vàng, có niên đại thế kỷ XVII- XIX.
Tượng Hộ pháp: Bên phải là tượng Khuyến Thiện, bên trái là tượng Trừng Ác. Hai vị mặc áo võ tướng hay còn gọi áo giáp “nhẫn nhục” nhằm diệt trừ tham, sân, si, ái, ố, hỉ, nộ. Nhờ đó giữ thân tâm trong sáng và cương quyết như kim cương nên còn gọi là tượng Kim Cương.
Thiêu hương: có mặt bằng hình chữ nhật nằm dọc, nền lát gạch Cậy. Thiêu hương có 2 gian. Kết cấu kiến trúc thiêu hương gồm có 3 bộ vì. Hai vì nóc thứ nhất và thứ hai (tính từ ngoài vào) của Thiêu hương được làm theo kiểu vì giá chiêng. Đáng quan tâm là vì nóc thứ hai có kết cấu kiểu giá chiêng, nhưng các cấu kiện và ván nong trong lòng giá chiêng đều được chạm kín các hình rồng, mặt trời, thú, hoa cúc, lân... mang phong cách nghệ thuật thế kỷ XVII. Đây là những mảng chạm khắc có giá trị nhất của ngôi chùa này. Phía dưới vì nóc này còn gắn một bộ cửa võng cũng được chạm khắc rất tinh xảo, có giá trị nghệ thuật cao, niên đại khoảng giữa thế kỷ XVII.
Thượng điện: được dựng trên nền cao hơn 0,74m so với Tiền đường và Thiêu hương. Thượng điện có 1 gian 2 chái, 4 hàng chân cột, gian giữa có kích thước 3,34m, gian chái có kích thước 2,06m. Kết cấu kiến trúc Thượng điện có 2 bộ vì. Các vì nóc làm theo kiểu vì kèo cọc báng, tương tự như vì nóc gian bên Tiền đường. Vì nách làm theo kiểu chồng rường, các cấu kiện được làm đơn giản, bào trơn đóng bén. Các vì nách hồi cũng kết cấu kiểu chồng rường, gồm hai rường cánh ăn mộng vào thân cột trốn, đầu rường đỡ hoành mái. Thượng điện có 4 mái, lợp ngói mũi. 3 mặt của Thượng điện (hai chái và phía sau) được bưng bằng ván đố lụa.
Lớp thứ nhất: Tam Thế Phật, là 3 vị chư Phật của 3 thời: Quá khứ - Thanh Tịnh pháp thân Phật, Hiện tại - Viên Mãn Báo thân Phật, Vị Lai - Hoá thân Bản sư Thích ca Mâu ni Phật; còn gọi là: Trang Nghiêm kiếp, Hiền Kiếp và Tinh Tú kiếp
Lớp thứ hai: Bộ Di Đà Tam Tôn, ở giữa là Phật A di đà, thị giả 2 bên là Quan Thế Âm Bồ Tát (bên trái), bên phải là Đại Thế Chí Bồ Tát.
Lớp thứ ba: Tượng Thích Ca Niêm Hoa: Thích Ca là người sáng lập ra đạo Phật, Thị giả hai bên là Ca Diếp và Anan.
Lớp thứ 4: Toà Cửu Long: Được đặt chính giữa Phật điện hàng thứ 4. Giữa toà Cửu Long là pho tượng Thích Ca sơ sinh.
Nhà phẩm là một công trình kiến trúc bằng gỗ cao gần 8m với 4 cột cái, 16 cột quân cùng hệ thống xà nối, ván bưng đố lụa, kiến trúc theo kiểu chồng diềm, 3 tầng, 12 mái với các mảng chạm khắc, kiến trúc thời Hậu Lê. Nhà Phẩm được làm bằng gỗ lim, hình vuông, có 4 cửa quay 4 hướng, mái lợp ngói ta, bốn góc đao rồng. Chính giữa nhà phẩm là tòa cửu phẩm.
Tòa Cửu phẩm có cột cái gỗ lim khối lục lăng, mỗi mặt rộng 1,2m, cao 4,44m. Để tạo dựng kiệt tác này, các nghệ nhân xưa đặt cột trụ lim ở giữa, và 6 trụ chạm khắc hình trúc hóa long ở chung quanh, liên kết trụ giữa với các cột chung quanh bằng một hệ thống xà gánh đan chéo hình múi khế; xà ngang chia tháp thành 9 tầng hoa sen (nên mới gọi là Cửu phẩm Liên hoa), mỗi tầng 5 lớp cánh. Mỗi cạnh của tòa Cửu phẩm đặt 3 pho tượng Phật, mỗi tầng 18 pho, tầng cao nhất chỉ có 1 pho Tượng ngồi cao 1m, đầu đội trần nhà Cửu phẩm. Với chiều cao và diện tích như vậy, cùng tổng cộng 145 pho tượng Phật, tòa Cửu phẩm Liên hoa nặng khoảng 4 tấn. Tuy nhiên chỉ cần hai người dùng tay đẩy nhẹ, cả tòa Cửu phẩm có thể từ từ quay vòng tròn. Nhà phẩm và tòa Cửu phẩm Liên hoa lưu giữ vẻ đẹp của nghệ thuật kiến trúc thời Hậu Lê (thế kỷ XVII - XVIII). Công trình kiến trúc này, cùng với chùa Bút Tháp ở Bắc Ninh và chùa Động Ngọ ở Thanh Hà, Hải Dương, là ba kiệt tác của kiến trúc nghệ thuật điêu khắc gỗ cổ truyền Việt Nam còn lưu giữ được đến ngày nay. Công trình đã được công nhận là Bảo vật Quốc gia năm 2015.
Nhà Tổ là một công trình hình chữ nhất nằm ngang, gồm 5 gian 2 chái, kết cấu 5 hàng chân cột. Các cột kê chân tảng âm dương, không trang trí. Các cột cái có đường kính 0,24m, cột quân có đường kính 0,22m, cột hiên đường kính 0,18m. Những bộ vì nhà Tổ có hình thức không đồng nhất, trang trí mang nhiều phong cách nghệ thuật nửa đầu thế kỷ XX.
Nhà Tổ chùa Giám có 4 mái, 2 mái chính và 2 mái hồi. Các mái lợp ngói mũi. Hệ thống hoành mái đều là hoành vuông, hệ thống cửa bằng gỗ kiểu bức bàn ở gian giữa và gian bên thứ nhất. Gian bên thứ hai và gian hồi xây kín bằng tường gạch trát vữa.
Nhà tổ đặt ban thờ Đại danh y Tuệ Tĩnh người đã tu hành và làm lên tên tuổi của một vị Y Tổ….
Chùa Giám với kiến trúc nghệ thuật tiêu biểu cùng với Tòa Cửu phẩm Liên hoa cũng được xem là cổ vật có giá trị nghệ thuật kiến trúc đặc biệt còn lưu giữ được ở nước ta hiện nay. Tòa Cửu phẩm Liên hoa không chỉ có ý nghĩa quảng bá tinh thần bác ái của Phật giáo mà còn thể hiện sự phát triển của dòng Thiền phái Trúc Lâm Yên Tử. Các chùa xây dựng tháp Cửu phẩm Liên hoa là những trung tâm Phật giáo, gắn liền với các vị Thiền sư Danh tiếng như chùa Giám là nơi tu Thiền của Đại Danh y, Thiền sư Tuệ Tĩnh. Tòa tháp Cửu phẩm Liên hoa đã trở thành điểm nhấn của ngôi chùa Giám cổ kính, gợi lên bao suy ngẫm về cái lẽ sắc không của kiếp nhân sinh. Bên cạnh đó tòa Cửu phẩm Liên hoa cũng là nguồn tư liệu có giá trị lịch sử phục vụ cho công tác nghiên cứu khoa học xã hội nhân văn nói chung và khoa học lịch sử nói riêng.
Về với chùa Giám quý khách còn thấy được sự độc đáo bởi kiến trúc, bên cạnh kiến trúc là phần thờ tự khác với các ngôi chùa khác là thờ Phật nhưng chùa Giám là tiền Phật, hậu Thánh ( vị Thánh thuốc Nam) được thờ tại nhà tổ……
Hiện vật
Bản đồ
Địa điểm xung quanh
Bình Phiên, xã Ngọc Liên, Cẩm Giàng , Hải Dương
4.54Km