


Giới thiệu
Di tích Quốc gia đặc biệt đền Xưa, nằm trong cụm di tích Quốc gia đặc biệt đền Xưa – chùa Giám – đền Bia, tọa lạc tại Nghĩa Lư trang, nay là làng Xưa, thôn Nghĩa Phú, xã Tuệ Tĩnh – Thành phố Hải Phòng
Đây là một trong những di tích lịch sử, văn hóa quan trọng của làng, gắn liền với sự nghiệp và ảnh hưởng lớn lao của Thiền sư Tuệ Tĩnh đối với nền y học cổ truyền dân tộc.
Đền Xưa được xây dựng để tưởng nhớ và tri ân Tuệ Tĩnh, người đã có những đóng góp to lớn trong việc phát triển y dược, đặc biệt là với các bài thuốc từ cây thuốc nam, chữa bệnh cho nhân dân. Kiến trúc của đền mang đậm nét văn hóa truyền thống, với các hạng mục như Nghi môn, Tiền tế, Hậu cung, và các công trình phụ trợ khác tự được bố trí hợp lý, tạo nên không gian linh thiêng và trang trọng.
Làng Xưa có một lịch sử lâu dài và là nơi nuôi dưỡng những giá trị văn hóa, tôn giáo đặc sắc. Cụm di tích đền Xưa – chùa Giám – đền Bia không chỉ là điểm tham quan tâm linh mà còn là nơi lưu giữ những giá trị lịch sử, văn hóa, giúp thế hệ sau hiểu hơn về công lao của Tuệ Tĩnh và các bậc tiền nhân. Với ý nghĩa to lớn cả về mặt lịch sử lẫn văn hóa, đền Xưalà một địa chỉ quan trọng trong việc bảo tồn và phát huy các giá trị di sản của dân tộc Việt Nam.
Vị trí của đền Xưa rất thuận lợi, nằm phía Tây thành phố Hải Phòng, và cách thủ đô Hà Nội khoảng 55 km về phía Đông Nam. Đền Xưa cách Quốc lộ 5A chừng 4km, con đường giao thông huyết mạch nối Hà Nội với Hải Phòng, tạo điều kiện dễ dàng tiếp cận cho du khách từ nhiều khu vực khác nhau. Vị trí này không chỉ giúp đền trở thành điểm đến tâm linh quan trọng mà còn là nơi kết nối giữa các vùng văn hóa trong và ngoài tỉnh.
Địa hình khu vực xung quanh đền Xưa chủ yếu là dân cư đông đúc và cánh đồng rộng lớn bao quanh đền tạo nên một không gian xanh mát, thanh bình, lý tưởng cho việc phát triển nông nghiệp, đặc biệt là trồng cây thuốc nam, nơi có mối liên hệ sâu sắc với Tuệ Tĩnh – vị danh y nổi tiếng gắn liền với việc phát triển y học cổ truyền. Khu vực này cũng được bao bọc bởi những con đường làng yên ả, tạo nên không gian tĩnh lặng và linh thiêng, thuận lợi cho các nghi lễ tôn thờ và các hoạt động tâm linh.
Đền Xưa được xây dựng chính xác từ năm nào, đến nay chưa xác định được. Tuy nhiên căn cứ vào những di vật, cổ vật, kiến trúc hiện còn như: Sập đá, chân tảng đá hoa sen, sấu đá, các bức chạm gỗ… có thể xác định ngôi đền được xây dựng vào khoảng thế kỳ XVII. Đến thời Nguyễn, di tích được trùng tu hai lần vào các năm Thành Thái nhị niên (1890) và Bảo Đại thứ 3 (1929).
Trước đây, ngôi đền có kiến trúc kiểu chữ Nhị (=), gồm 05 gian Tiền tế và 03 gian Hậu cung. Hệ thống các cột, vì, kèo được làm bằng gỗ. Các đấu chồng, con rường đều được chạm khắc hoa lá cách điệu thanh thoát, nhẹ nhàng mang đậm dấu ấn kiến trúc nghệ thuật thời Nguyễn. Di tích được xếp hạng cấp Quốc gia năm 1990, xếp hạng cụm di tích quốc gia đặc biệt: đền Xưa- chùa Giám – đền Bia năm 2017.Từ năm 2006 -2008, Bộ Y tế đã phối hợp với UBND tỉnh Hải Dương đầu tư kinh phí trùng tu, tôn tạo một số di tích tiêu biểu gắn với cuộc đời và sự nghiệp của Đại danh y Tuệ Tĩnh, trong đó có di tích đền Xưa. Đây là đợt trùng tu lớn được tiến hành trong 2 giai đoạn: Giai đoạn 1 từ năm 2006 đến năm 2008 trùng tu, tôn tạo nhà Tiền tế 5 gian, Hậu cung 3 gian, Nhà khách 5 gian, Giếng nước và Cầu đá vào đền; Giai đoạn 2 năm 2009 đến năm 2011 làm hệ thống sân, vườn thuốc, Nghi môn, tường bao xung quanh di tích.
Di tích hiện nay có mặt tiền quay về hướng Bắc. Vào thăm di tích bắt đầu từ Nghi môn tứ trụ được làm bằng chất liệu đá xanh. Phía trên và xung quanh có trang trí hình phượng, lân và chữ “Thọ” cách điệu.
Nghi môn được xây dựng kiên cố, vững chãi, mang đậm nét kiến trúc cổ truyền của Việt Nam, với kiểu dáng đơn giản nhưng đầy trang nghiêm. Nghi môn gồm hai trụ cột lớn, vững vàng, được làm bằng đá Nghi môn không chỉ là một phần của kiến trúc đền mà còn là biểu tượng cho sự chuyển giao từ thế giới trần tục vào không gian thiêng liêng, là nơi du khách cảm nhận được sự trang trọng, linh thiêng của đền Xưa.
Qua Nghi môn là một khoảng sân rộng lát gạch đỏ, hai bên là giếng hình tròn đăng đối, có đường kính khoảng 25m. Tương truyền giếng trước đây được làm bằng đất, sau kè gạch nghiêng, đến năm 2006 giếng được trùng tu và kè lại bằng chất liệu đá. Xung quanh giếng được xây tường bao bảo vệ, trang trí hoa lá cách điệu. Bên phải (từ cổng vào) là cây đa cổ thụ xanh tốt, tỏa bóng quanh năm.
Với kết cấu vuông vắn, sân đền được lát bằng gạch vuông đỏ, tạo cảm giác gần gũi và hòa hợp với thiên nhiên xung quanh. Đây là nơi các nghi lễ được tổ chức, là không gian tĩnh
lặng và thiêng liêng, nơi du khách và phật tử có thể dâng hương, cầu nguyện và tưởng niệm.
Sân đền được bố trí khoa học, có những khu vực dành riêng cho các buổi lễ lớn, nơi các bậc chức sắc tổ chức tế lễ, cùng với không gian mở rộng để khách thập phương đến hành hương. Đặc biệt, ở giữa sân có những cây cổ thụ xanh mát, tạo bóng mát và góp phần làm tăng thêm vẻ thanh tịnh của khuôn viên đền.
Không chỉ mang giá trị về mặt kiến trúc, sân đền Xưa còn là nơi lưu giữ nhiều hoạt động văn hóa dân gian truyền thống, gắn liền với các lễ hội, hội thảo và các sự kiện tôn giáo, giúp bảo tồn các giá trị văn hóa đặc sắc của cộng đồng. Đây chính là nơi thể hiện rõ nét không gian thiêng liêng, uy nghiêm của đền thờ, đồng thời cũng là điểm gặp gỡ, giao lưu giữa các làng trong các dịp lễ hội.
Trong khuôn viên di tích đền Xưa, ngoài ngôi đền chính, hệ thống cổng, tường bao, sân vườn, giếng còn có 02 nhà Chè và 02 nhà Giải vũ nằm ở phía Tây Nam của di tích.
Nhà Giải vũ được làm bằng gỗ lim chắc chắn, gồm 5 gian. Hai nhà Chè là 2 gian nhỏ diện tích 3m x 4m, được dùng làm nơi tiếp khách và ghi nhận công đức. Công trình cũng được làm bằng gỗ lim chắc chắn, phần mái được hạ xối nối liền với tòa Tiền tế và Hậu cung tạo thành một không gian khép kín, hoàn chỉnh, đăng đối và đồng bộ.
Hiện tại di tích còn lưu giữ nhiều cổ vật có giá trị, trong đó có một số cổ vật đáng chú ý như: 2 sập đá có niên đại thời Hậu Lê, chân tảng đá thời Hậu Lê; 1 chuông đồng đúc năm Tự Đức thứ 8 (1855); 5 sắc phong cho Tuệ Tĩnh vào các thời Thiệu Trị thứ 6 (1846) và Tự Đức thứ 3 (1850), Duy Tân năm thứ 3 (1909), Khải Định năm thứ 9 (1924) và Bảo Đại năm thứ 15 (1940); 1 tượng đồng Đại danh y Tuệ Tĩnh năm 2005. Cùng hệ thống Hoành phi, Câu đối, Ngai, Bài vị, Tượng, Nghê đá có niên đại thời Hậu Lê, Nguyễn có giá trị cũng đang được lưu giữ cẩn trọng tại di tích.
Qua khoảng sân rộng và bậc tam cấp được làm bằng chất liệu đá xanh là tòa Tiền tế. Công trình gồm 5 gian 2 dĩ theo kiểu 2 tầng 8 mái. Các mái đao cong vút uyển chuyển, được đắp vẽ hình tượng “Rồng chầu Phượng mớm” và lá lật cách điệu khá tinh xảo. Bờ nóc được trang trí hình “Lưỡng long chầu nhật”. Nét đắp uyển chuyển, mỹ thuật thể hiện thần thái của các linh vật và sự tài hoa khéo léo của người nghệ nhân dân gian.
Tại trung tâm tòa Tiền tế có đặt Nhang án, Ngai và Tượng thờ Tuệ Tĩnh. Phía trên Nhang án có một bức Hoành phi lớn và 2 đôi câu đối hai bên ca ngợi công lao của Đại danh y Tuệ Tĩnh. Bức Hoành phi phiên âm: “Tế thế trạch dân”, có nghĩa là “Cứu đời giúp dân” hoặc “Cứu đời mang lại ân huệ cho dân”.
Và đôi câu đối phiên âm:
“Danh khôi nghị giáp tiêu Trần giám
Sứ mệnh thập tỉnh toàn Bắc y”
Dịch nghĩa là:
“Đỗ hàng Danh khôi, đệ nhị giáp Tiến sĩ, ghi tại bảng đề Danh tân khoa Tiến sĩ ở nhà Giám đời Trần
Hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ đi sứ, tài chữa bệnh, thức tỉnh Y học phương Bắc”
Sau tòa Tiền tế là khoảng sân nhỏ để lộ thiên rộng khoảng 5m, ở giữa có đặt hòn non bộ được đắp theo kiểu “tam sơn”. Tiếp sau là tòa Hậu cung gồm 3 gian có kích thước 9,7m x 7,5m, xây theo kiểu 2 tầng 8 mái nhưng bít đốc bổ trụ.
Trên bờ nóc đắp “Lưỡng long chầu nhật”, nét đắp tinh xảo mềm mại, mái lợp ngói mũi truyền thống. Kết cấu các vì chính được làm theo kiểu “Con chồng giá chiêng”.
Hệ thống đầu dư, bảy hiên, đấu kê, kẻ chuyển, cột, cửa (3 bộ cửa) đều được làm bằng chất liệu gỗ, chạm khắc Rồng, Phượng, vân mây, hoa lá cách điệu và được sơn son thếp vàng lộng lẫy tăng sự uy nghiêm, linh thiêng nơi thờ tự.
Tại tòa Hậu cung có 3 bức Hoành phi và 3 đôi câu đối ca ngợi công lao, tài đức của Đại danh y Tuệ Tĩnh, trong đó đáng chú ý nhất là bức Hoành phi lớn được viết bằng 4 chữ Hán, phiên âm là: “Xuân đài thọ vực”, dịch nghĩa: “Tòa nhà Xuân, cõi thọ”. Phía trên ban thờ Đại danh y Tuệ Tĩnh còn 02 bức Hoành phi, một bức do Hội Đông y tỉnh Hải Dương cung tiến mới đưa vào những năm gần đây, phiên âm: “Nam dược trị nam nhân”, có nghĩa là: “Dùng thuốc Nam trị bệnh cho người nước Nam”. Đây chính là câu nói nổi tiếng, đã có ảnh hưởng sâu sắc đến nhiều thế hệ thầy thuốc Y học cổ truyền Việt Nam của Đại danh y Tuệ Tĩnh. Bức còn lại do nhân dân cung tiến, phiên âm: “Nam dược thánh từ”, dịch nghĩa là “Đền thờ Đức Thánh thuốc Nam”.
Trong tòa Hậu cung có bố trí 3 ban thờ tự. Ở vị trí chính giữa đặt tượng thờ Đại danh y Tuệ Tĩnh. Tượng được đúc năm 2005 bằng đồng đen. Hai bên là ngai, bài vị thờ tiến sĩ Nguyễn Danh Nho và Thổ công.
Hiện vật
Bản đồ
Địa điểm xung quanh
Bình Phiên, xã Ngọc Liên, Cẩm Giàng , Hải Dương
8.29Km